‘Helgoland’: cuộc thập tự chinh của một nhà vật lý lượng tử chống Lenin

Trong cuốn sách Helgoland, nhà vật lý Carlo Rovelli đưa ra diễn giải mới của mình về cơ học lượng tử, kèm theo một cuộc công kích Lenin. Như Ben Curry giải thích, Rovelli cảm thấy có nhu cầu công kích Lenin, một nhà duy vật vĩ đại nhất thế kỷ XX, vì chính Rovelli rõ ràng đang từ bỏ chủ nghĩa duy vật. Và trong lúc ông cố trả lời Lenin thì hóa ra Lenin từ lâu đã trả lời những sai lầm triết học của chính Rovelli.

Khoa học
Triết học
Các tác giả

Ben Curry

Lê Minh Hà (dịch)

Xuất bản

15-11-2025

Năm 2021, tác phẩm Helgoland của Carlo Rovelli, một cuốn sách về cơ học lượng tử và triết học, được xuất bản bằng tiếng Anh. Nó nhanh chóng vượt lên đứng đầu các danh sách ‘bán chạy nhất’, và được chọn là ‘cuốn sách của năm’ bởi The Times, Financial Time, Sunday TimesThe Guardian.

Cuốn sách mở đầu trên một hòn đảo Helgoland cằn cỗi, phủ sương ở Biển Bắc, nơi nhà vật lý Werner Heisenberg tìm nơi ẩn dật để tránh chứng dị ứng phấn hoa của ông, và năm 1925 ông đã thực hiện những bước đột phá trong lý thuyết lượng tử. Nhưng từ Helgoland, bằng một giọng văn hoa mĩ đã trở thành đặc sản của Rovelli, chúng ta được đưa trở lại rất nhanh chóng về với mảnh đất quen thuộc: thế giới lượng tử thần bí.

“Chúng ta quan sát biển. ‘Thật không thể tin nổi,’ Časlav thì thầm. ‘Chúng ta có thể tin điều này được không? Cứ như là thực tại … không tồn tại…’”1

1 C Rovelli (2021), tr. 1.

Rovelli mô tả thế giới lượng tử, mà ông hứa sẽ dẫn chúng ta thăm quan một vòng, như là điều gì đó “gây ra sự bối rối hết sức tinh tế, huyền bí. […] Những đối tượng xa cách dường như được kết nối lại một cách kỳ diệu. Vật chất bị thay thế bằng những sóng xác suất ma quái.”2

2 sđd, tr. 2.

“Kỳ bí”, “kỳ diệu”, “ma quái”, vật chất đột nhiên biến mất… trước đây chúng ta chắc chắn đã nghe về tất cả những thứ ấy trước khi nó trở thành một chuỗi rác rưởi thần bí mà đã được hất lên chiếc xe goòng cơ học lượng tử trong thế kỷ qua. Rovelli có cuộc chơi riêng của mình ở trên đó. Trong cuốn sách này, ông đưa ra một diễn giải ‘mới’ về cơ học lượng tử, mà ông gọi là ‘diễn giải quan hệ’.

Nhưng đâu đó ở giữa cuốn Helgoland, Rovelli tiến vào một vùng đất có vẻ như thật bất ngờ. Từ những nhà tiên phong trong cơ học lượng tử, chúng ta đột nhiên được đặt đối diện với Lenin, người đang bảo vệ chủ nghĩa duy vật chống lại Alexander Bogdanov, một người Bolshevik đã trở thành một người phái Mach [Ma-khơ].

Người ta có cảm giác rằng, lúc viết cuốn sách này, lương tâm triết học của Rovelli bị cắn rứt. Là một người cựu cánh tả từng tham gia các tổ cộng sản từ thập niên 1970, ông lường trước nhu cầu tự vệ (phải nói rằng không có việc nào tỏ ra quá thành công), trước một nhà triết học duy vật vĩ đại của thế kỷ XX: Lenin. Trong lời cảm ơn, cuốn sánh đề tặng đối thủ của Lenin là Bogdanov, có lẽ thật không bình thường cho một cuốn sách về cơ học lượng tử, nhưng không phải hoàn toàn không thích hợp.

Cuộc cách mạng lượng tử

Rovelli mở đầu cuốn sách của mình với cuộc cách mạng trong cơ học lượng tử đầu thế kỷ XX mà đã đưa ra ánh sáng những đặc trưng mới của vật chất bỏ xa sự hiểu biết theo ‘lương thức’ của chúng ta.

Tại hội nghị Solvay nổi tiếng năm 1927, một cuộc tranh luận nổ ra về cách diễn giải các khám phá này giữa Niels Bohr và Albert Einstein, báo hiệu một sự chia rẽ triết học vẫn còn dai dẳng đến ngày nay. Thế giới vật chất có tồn tại độc lập với người quan sát có ý thức? Đây là mấu chốt của sự chia rẽ giữa những người duy vật có câu trả lời khẳng định, và những người duy tâm chủ quan có câu trả lời phủ định.

Hình 1: Một minh họa về cách thức một sóng hành xử khi nó va vào một vật cản có hai khe. Một sóng va vào một vách có hai khe hẹp, chia sóng làm hai sóng riêng biệt mà chúng tương tác, giao thoa với nhau tạo ra một mẫu hình gồm các đỉnh và các đáy trên tấm màn phát hiện. / Image: vchal / Alamy Stock Photo

Phần lớn sự tranh cãi xoay quanh việc diễn giải một đặc tính của các hệ thống cơ học lượng tử mà được gọi là ‘đối tính sóng-hạt’. Để minh họa hiện tượng mâu thuẫn này, chúng ta sẽ cáo từ Rovelli trong chốc lát.

Hãy xem một cái ao. Lấy một hòn đá rồi ném nó xuống ao và cố ném trúng một lá cây hoa súng. Bạn chỉ có thể ném trúng một lá hoa súng mỗi lần. Theo ý nghĩa đó, hòn đá hành xử như một hạt: đó chính là cái mà các nhà vật lý gọi là sự ‘rời rạc’ – tức là, nó đi theo một quỹ đạo xác định trong hành trình của nó.

Hình 2: Các kết quả từ thí nghiệm khe đôi lượng tử. Các electron đơn lẻ được bắn ra một hạt mỗi lần vào khe đôi, và nơi chúng bắn trúng màn phát hiện được ghi lại như một chấm trắng. Mẫu hình phân phối mà cuối cùng tập họp lại trên màn phát hiện trông giống một hình giao thoa kiểu sóng, rất giống thí nghiệm khe đôi về ‘sóng cổ điển’ ở trên. / Image: Dr. Tonomura Via Belsazar

Nhưng nếu bạn ném trượt, và hòn đá đáp xuống nước, các sóng lan ra liên tục như những gợn sóng dưới nước. Các sóng có thể hoạt động tại nhiều nơi cùng lúc, làm cho mọi cây hoa súng nhấp nhô lên xuống đồng thời.

Cơ học lượng tử bảo chúng ta rằng tại cấp độ hạ nguyên tử, những viên gạch xây lên vật chất (cái được gọi là ‘lượng tử’, như photon, electron, v.v.) thể hiện cách hoạt động vừa giống như sóng vừa giống như hạt. Làm sao có thể như thế được? Làm thế nào mà vật chất vừa bị cô lập trong một nơi như một hạt, nhưng lại lan truyền và liên tục giống như một sóng?

Thí nghiệm khe đôi nổi tiếng chứng minh một cách gọn gàng cách hành xử này. Nếu chúng ta lấy một chùm electron yếu và bắn vào một tấm cản có hai khe đặt gần nhau, đằng sau tấm đó chúng ta đặt một màn phát hiện, một chùm electron ổn định sẽ đến, mỗi hạt một lần, tại màn phát hiện. Chúng đến đó như thế nào?

Chúng ta có thể cho rằng mỗi electron phải đi qua đúng một khe trên đường đi đến bộ phát hiện. Cuối cùng, đó là cách các hạt hành xử – một hòn đá chỉ có thể đáp trúng một lá hoa súng mỗi lần và nó đi theo một lộ trình rõ ràng trên hành trình của nó đến đó, cho nên một hạt được cho là chỉ đi qua một khe mỗi lần trên con đường dẫn đến màn phát hiện.

Mỗi electron thật ra chỉ bắn trúng màn phát hiện tại một nơi duy nhất, giống như một hạt. Nhưng khi càng có nhiều electron bắn trúng màn, chúng lại tạo thành một mẫu hình có dạng của một sóng đã đi qua cả hai khe rồi giao thoa với chính nó, theo cách thức một gợn sóng trong một cái ao có thể bật trở lại từ bờ rồi giao thoa với chính nó để tạo thành một mẫu hình.

Một sóng, do tiên tục (tức là lan truyền), có thể đi qua hai khe cùng lúc. Nhưng một hạt, do rời rạc, chỉ có thể đi qua một khe tại một thời điểm.

Thế thì chuyện gì đã diễn ra? Có phải electron đi qua khe A hoặc khe B giống như một hạt mà chỉ có thể ở một nơi tại một thời điểm? Hay nó đi qua cả hai? Hay không đi qua khe nào cả? Nếu chúng ta dừng lại ở các kết quả thí nghiệm, chúng ta phải kết luận rằng vấn đề không hề đơn giản.

Đây là chuyện hoàn toàn khác khi phủ nhận khả năng tìm ra lời giải cho vấn đề này bằng cách cho rằng thế giới vật chất, như thế, không hề tồn tại độc lập với sự quan sát của chúng ta. Song đây lại chính là kết luận mà các nhà vật lý lượng tử đã rút ra, kể cả Werner Heisenberg.

Theo quan điểm này, được gọi là ‘diễn giải Copenhagen’, thật vô nghĩa ngay cả khi hỏi một hạt lượng tử đi theo con đường nào. Thay vào đó, tất cả những gì tồn tại là một tập hợp các xác suất mà một hạt có thể xuất hiện ở chỗ này mà không ở chỗ khác khi chúng ta quan sát nó.

Theo cách diễn giải này, chỉ vào lúc được quan sát hạt mới nhận được một vị trí ‘thực’, momentum và các thuộc tính khác. Cho đến khi nó được quan sát, vật chất tồn tại trong thế giới bên kia, không ở chỗ này cũng không ở chỗ kia, không đến cũng không đi. Sự ngẫu nhiên lượng tử chỉ là một phần bản chất bên trong của tự nhiên, một đường thẳng vạch trên cát mà khoa học không thể nào vượt qua được.

Vấn đề do đó được ‘giải quyết’ (hay nói cho đúng ra là bị loại bỏ) bằng cách bác bỏ tính nhân quả, và bác bỏ bản thân thực tại, cho đến khi ‘sự quan sát’ làm cho thực tại nói trên hiện hữu.

Không khó để thấy rằng cách diễn giải này, với ‘người quan sát’ được định nghĩa một cách mơ hồ làm cho thế giới hiện hữu, mở cửa cho chủ nghĩa duy tâm triết học. Bây giờ, người ta bảo chúng ta, sự quan sát làm cho bản thân thực tại hiện hữu. Đây có phải là sự quan sát có ý thức? Một số người, như nhà tiên phong trong toán học của cơ học lương tử, van Neumann, đã tuyên bố chắc chắn như thế. Với tư tưởng này, sự tồn tại của thế giới vật chất trở thành lệ thuộc vào người quan sát có ý thức chứ không phải ngược lại. Chủ nghĩa duy tâm do đó được phép xâm nhập vào các khoa học.

Một cuộc phản cách mạng trong triết học

Cách giải thích theo triết học này không từ trên trời rơi xuống. Chủ nghĩa duy tâm đang mở rộng sức ảnh hưởng của nó đến các nhóm trí thức và khoa học trong vài thập kỷ trước cuộc cách mạng lượng tử vĩ đại, dưới ngọn cờ của ‘chủ nghĩa thực chứng’.

Trung tâm của phong trào triết học này vào đầu thế kỷ XX là Vienna. Thời đó, chủ nghĩa duy vật cách mạng của chủ nghĩa Marx đang thực hiện những bước tiến rất lớn trong phong trào công nhân, đặc biệt trong thế giới nói tiếng Đức. Sự lan toả của chủ nghĩa duy tâm triết học trong các nhóm trí thức tư sản, tiên phong bởi nhà khoa học kiêm triết học Ernst Mach [Ma-khơ], diễn ra trong cuộc phản công chống sự ảnh hưởng ngày càng tăng của chủ nghĩa Marx.

Rovelli nêu bật sự ảnh hưởng lên các nhà khoa học vào thời kỳ “những cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa thực tại và kinh nghiệm tràn vào triết học Đức và Áo hồi đầu thế kỷ”:

“Ernst Mach, người đã gây ra một ảnh hưởng quyết định lên Einstein, khẳng định rằng kiến thức phải được đặt cơ sở chỉ riêng vào những sự quan sát, được giải thoát khỏi bất cứ tiền đề ‘siêu hình’ ngầm định nào. Chúng là những thành phần đi với nhau trong tư duy của chàng thanh niên Heisenberg…”3

3 sđd, tr. 12.

Thật không công bằng khi Rovelli bỏ qua không đề cập rằng Einstein về sau sẽ quay lưng lại với chủ nghĩa Mach để chọn một loại chủ nghĩa duy vật được gây cảm hứng bởi triết học của Spinoza. Nhưng ảnh hưởng của Mach lên tư duy của các nhà vật lý cho đến thời hiện tại là không thể phủ nhận.

Theo Mach, vai trò của triết học không phải để khám phá ra các định luật của một thế giới vật chất, tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta mà để tổ chức ‘kinh nghiệm’.

Đối với những người duy vật, ‘kinh nghiệm’ – nội dung của các cảm giác của chúng ta – là cửa sổ của chúng ta về thế giới vật chất, được tạo ra bởi sự tác động của vật chất lên các giác quan vật chất của chúng ta. Đối với Mach, cái chúng ta cho là các khách thể vật chất chỉ là sự tương quan của tri giác cảm tính.

Trong các trước tác của mình, Mach coi ‘tri giác cảm tính’ là ‘những yếu tố thế giới’. Nhưng việc chỉ thay thế một từ nghe có vẻ khoa học hơn cho ‘cảm giác’ không làm thay đổi bản chất triết học của ông. Những ý niệm được truyền vào ý thức của chúng ta bằng cảm giác thực tại đối với Mach.

Tôi thấy một vật hình cầu có màu đỏ, có cảm giác cứng và giòn, và có vị ngọt. Tôi gọi nó là một ‘quả táo’. Đối với Mach, quả táo chỉ là một từ thay thế cho sự tương quan của những cảm giác, và thật vô nghĩa khi nói về một quả táo vật chất độc lập với những cảm giác này.

Đây là chủ nghĩa duy tâm chủ quan, như Lenin đã chỉ ra rất sâu sắc trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, một luận chiến chống một số người được gọi là ‘các nhà Marxist’ tại Nga, gồm có Bogdanov, người đã chấp nhận các tư tưởng của Mach.

Chủ nghĩa duy tâm có một sự liên kết rõ ràng với ‘diễn giải Copenhagen’ theo lối duy tâm, trong đó người quan sát có ý thức trở thành bộ phận trung tâm của thực tại. Theo những lời nói của người đồng phát minh ra cách diễn giải đó, Niels Bohr: “Trong sự mô tả của chúng tôi về tự nhiên, mục đích không phải là phát hiện bản chất thực sự của các hiện tượng, mà là theo dõi và nắm bắt được, đến mức có thể, những mối quan hệ các những khía cạnh muôn mình muôn vẻ của kinh nghiệm của chúng ta.”4

4  N Bohr (1985), tr. 296.

Chẳng duy vật cũng chẳng duy tâm?

Người ta thường xuyên cho rằng (hoàn toàn sai) một giải thích duy vật về các hiện tượng được mô tả bởi cơ học lương tử bị loại trừ. Trong một thế kỷ, những cố gắng nhằm diễn giải cơ học lượng tử một cách duy vật đã gặp phải thái độ thù địch và dè bỉu của giới khoa học.

Lý thuyết ‘sóng dẫn đường’5 chẳng hạn, được Louis de Broglie tiên phong và được David Bohm phát triển một cách đầy đủ hơn, thường xuyên gặp phải thái độ này. Bản thân Bohm còn bị xua đuổi ra khỏi Hợp chúng quốc trong ‘Nỗi sợ Cộng sản’ thời McCarthy vì những sự liên hệ trong quá khứ của ông với Đảng Cộng sản. Quan điểm của ông bị giam hãm vào những xó xỉnh của vật lý trong 70 năm.

5 ‘pilot wav’

Theo lý thuyết này – bây giờ đang được quan tâm trở lại – các hạt lượng tử bị trói chặt với các sóng tự phát sinh mà dẫn dắt chuyển động của chúng. Trong thí nghiệm khe đôi nói trên, hạt đi qua một khe. Nhưng sóng tự phát sinh của nó đi qua cả hai khe và dẫn dắt đường đi của nó ở khe bên kia.

Trong khi lý thuyết này dự đoán rằng các hạt lượng tử hành xử một cách hỗn loạn, nó hoàn toàn tất định (tức là nói, nó có quy luật, và bảo toàn tính nhân quả) và có tính chất duy vật. Đây là một giả thuyết táo bạo, không cần đến một người quan sát được định nghĩa một cách khó hiểu để làm cho thực tại hiện hữu.

Lập trường của Rovelli về những cách diễn giải mẫu thuẫn này là gì?

Về diễn giải Copenhagen, trong thực tế coi sự hiện hữu của tự nhiên phụ thuộc vào một người quan sát (có lẽ có ý thức), Rovelli nhiều lần lặp lại việc đặt câu hỏi suốt trong cuốn sách của mình, “Tự nhiên có quan tâm đến việc có ai đó quan sát nó hay không?”6

6 C Rovelli (2021), tr. 20.

Đến chừng đó thì mọi chuyện vẫn ổn. Thế còn về những cố gắng giải thích cơ học lượng tử một cách duy vật theo cách thức của de Broglie hoặc của Bohm? Rovelli bác bỏ ngay lập tức.

Ông đưa ra giải thích của mình về cách thức cơ học Bohm thừa nhận sự tồn tại của một người quan sát, hạt vật chất, và một sóng vật chất, tự phát sinh để dẫn dắt hạt đó. Nhưng ông sau đó giải thích rằng ông khổ sở với tư tưởng về một sóng như thế, sự tồn tại của sóng đó chỉ được nội suy một cách gián tiếp nhờ hiệu ứng trong quá trình nó dẫn dắt các hạt:

“Có đáng nêu lên giả thuyết rằng sự tồn tại của một thế giới không thể quan sát được, mà không có hiệu ứng chưa được dự đoán bởi thuyết lượng tử, chỉ để khuây khoả nỗi sợ của chúng ta về tính bất định?”7

7 sđd, tr. 56.

Do đó, lập luận của ông là rằng dường như thật không tiết kiệm khi thừa nhận sự tồn tại của những khía cạnh mới của giới tự nhiên, chẳng hạn như các sóng định hướng các hạt lượng tử, khi chúng ta chỉ có thể thấy những hiệu ứng của chúng một cách gián tiếp.

Việc này phải dùng đến một tranh luận duy tâm cổ điển chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung, mà có trước cơ học lượng tử từ rất lâu. Nếu chúng ta lột bỏ ngôn ngữ ‘lượng tử’, câu hỏi của ông có thể được hệ thống lại như sau: “Chỉ để bảo toàn tính nhân quả, các anh những người duy vật đề xuất rằng có tồn tại một ‘vật-tự-nó’ vật chất không thể nhận thức được?”

Trong thực tế, Mach đã sử dụng chính xác lập luận này để bác bỏ lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về nguyên tử ở thời của ông.

Chúng ta có thể không bao giờ ‘thấy’ hoặc trực tiếp ‘trải nghiệm’ các nguyên tử, nhưng suy ra sự tồn tại của chúng thông qua lập luận và thực nghiệm. Tại sao thừa nhận sự tồn tại của một thế giới nguyên tử ‘không thể nào quan sát được’. Tư tưởng về nguyên tử dựa trên dữ liệu thí nghiệm trong thời Mach còn ít hơn rất nhiều so với dữ liệu mà chúng ta có ở thời hiện tại. Ngày nay, các kính hiển vi electron và tinh thể học sử dụng tia-X, những phương tiện trợ giúp cho mắt người, đã cho chúng ta một bức tranh rõ ràng hơn rất nhiều về những thực thể mà từng bị bác bỏ như là những sự tạo dựng tỏ vẻ học giả ‘không thể quan sát được’.

Để trả lời câu hỏi của Rovelli: vâng, chúng tôi những người duy vật đề xuất rằng tồn tại một ‘vật-tự-nó’ thuộc vật chất – vật chất – nhưng chúng tôi phủ nhận rằng nó ‘không thể nhận thức được’ hoặc ‘không thể quan sát được’. Với mức độ hiểu biết hiện tại của chúng tôi chúng tôi không thể nghiên cứu sâu hơn, nhưng điều này hoàn toàn khác với việc tuyên bố rằng chúng tôi sẽ không bao giờ nghiên cứu sâu hơn. Tuyên bố một điều như thế là tuyên bố một sự dừng lại đối với sự tiến lên của khoa học, điều đó chính xác là quan điểm của Rovelli và Heisenberg.

Những người duy tâm chủ quan thường tuyên bố rằng cách lập luận của họ là ưu việt trên cơ sở của ‘nguyên tắc tiết kiệm tư duy’. Chủ nghĩa duy vật là thấp kém hơn so với quan điểm của họ, họ cho rằng, bởi vì ngoài kinh nghiệm, nó thừa nhận một cách ‘không tiết kiệm’ sự tồn tại của vật chất như là chất nền của kinh nghiệm.

Rovelli phòng thủ chống lại tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của Lenin, nhưng ông ta thất bại trong việc đề cập đến thực tế rằng Lenin đã bác bỏ trực tiếp lý lẽ này, cùng với các lý lẽ khác trong cuốn Helgoland. Như Lenin nói:

“Tư duy” rằng nguyên tử là không thể phân chia được hay tư duy rằng nguyên tử là do những điện tử dương và âm kết thành, tư duy nhế nào thì “tiết kiệm” hơn nhỉ? Tư duy rằng cuộc cách mạng tư sản Nga là do những người theo chủ nghĩa tự do tiến hành hay tư duy rằng cuộc cách mạng đó được tiến hành là để chống lại những người theo chủ ghĩa tự do, tư duy thế nào thì “tiết kiệm” hơn? Chỉ cần đặt âu hỏi như vậy, cũng đủ thấy rằng đem phạm trù “tiết kiệm tư duy” ra ứng dụng ở đây là vô lý và chủ quan. Tư duy của con người có phản ánh được đúng đắn chân lý khách quan thì mới là tư duy “tiết kiệm”, và thực tiễn, thực nghiệm, công nghiệp là tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Chỉ có phủ nhận thực tại khách quan, nghĩa là phủ nhận những cơ sở của chủ nghĩa Marx thì mới có thể nói một cách nghiêm túc đến tiết kiệm tư duy trong lý luận về nhận thức được!8

8 Lenin (2005), tr. 203.

Không chỉ là sự ‘tiết kiệm’ rõ ràng cho tư duy của chúng ta khiến chúng ta quan tâm mà còn là mức độ phù hợp của tư duy của chúng ta với thực tại khách quan, tức là, tính chính xác của các biểu tượng của chúng ta.

‘Diễn giải quan hệ’

Cho nên Rovelli không thoả mãn với bất cứ cách diễn giải đã được xác lập nào về cơ học lượng tử. Ông bác bỏ quan niệm cho rằng tự nhiên phải quan tâm đến việc liệu chúng ta có đang quan sát nó, nhưng ông xem chủ nghĩa duy vật là ‘giáo điều’. Cuộc truy tìm của ông cho một con đường thứ ba, một sự thay thế cho cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm. Do đó, ông tiến điến sự diễn giải riêng của mình, cái mà ông gọi là ‘diễn giải quan hệ’ về cơ học lượng tử. Tuy nhiên, xem xét kỹ lưỡng hơn, thì chẳng có gì mới mẻ.

Có thể có lý khi hỏi những người đề xướng cách diễn giải Copenhagen: nếu ‘sự quan sát’ làm cho thế giới hiện hữu, cái gì được xem là một người quan sát và người quan sát phải có ý thức như thế nào? Chuyện gì xảy ra nếu tôi đang ngủ? Ý thức của một con chó có đủ không? Có lẽ ngay cả ý thức của một con giun tròn có đủ không? Thậm chí một ‘người quan sát’ kém ý thức hơn – ví dụ như một nguyên tử carbon – thì có đảm bảo sự hiện hữu của thế giới?

Bằng cách đẩy định nghĩa về một ‘người quan sát’ đến cấp độ này, Rovelli đi đến ‘diễn giải quan hệ’ của ông về cơ học lương tử: “Nếu chúng ta nhìn vào sự vật theo cách này, chẳng có gì đặc biệt trong ‘những sự quan sát’ mà Heisenberge đã đưa ra: mọi tương tác giữa hai đối tượng vật lý đều có thể được xem như một sự quan sát.”9

9 C Rovelli (2021), tr. 69.

Hình 3: Mê cung Gương tại Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp, Chicago / Image: Jules Verne Times Two

10 sđd, tr. 71.

Nhưng đối với Rovelli, giữa những sự tương tác này, ‘vật-tự-nó’ sống một cuộc đời phi tồn tại trong một thế giới sống dở chết dở bất định đúng như nó sống cho diễn giải Copenhagen: “Khi một electron không tương tác với bất cứ thứ gì, nó không có các thuộc tính vật lý. Nó không có vị trí; nó không có vận tốc.”10 Chúng ta chỉ cần bổ sung: “nó không tồn tại”. Thật may cho chúng ta, khi các electron biến mất không còn tồn tại, chúng hành xử tốt để giữ lại ký ức nào đó sao cho chúng sẽ bỗng nhiên lại tồn tại vào một thời điểm thích hợp.

Đối với Rovelli các electron và mọi sư vật vật chất khác không thực sự tồn tại, với tính cách như thế. Đối với Rovelli, cái chúng ta cho là các khách thể vật chất, chỉ là những “nút” trong một mạng lưới các tương tác và quan hệ. Các quan hệ tồn tại, nhưng bản thân vật chất thì là một ảo tưởng! Tất cả những gì hiện hữu là các hiện tượng, cách thức ‘sự vật’ này xuất hiện đối với ‘sự vật’ nào đó khác, ‘người quan sát’ nào đó trong những khoảnh khắc phù du khi họ ‘tương tác’, mà không có một nội dung thật sự nào. Thực tại, theo Rovelli, là “một trò đùa của những tấm gương tồn tại chỉ như là những sự phản xạ của nhau và ở trong nhau?”11

11 sđd, tr. 78.

12 sđd, tr. 131.

Cái mà chúng ta cho là ‘vật chất’ sẽ bị thay thế một cách phù hợp hơn bằng cái hư vô thuần túy, hình thức mà không có nội dung. Điều này không phải là một ý tưởng mới, và chính Rovelli thấy những sự tương đương trong học thuyết của nhà triết học Phật giáo duy tâm cực đoan của Ấn Độ thế kỷ II, Nāgārjuna, người dạy rằng, theo lời Rovelli: “Thực tại, kể cả chính chúng ta, không là gì khác ngoài một cái màn che mỏng manh, vượt qua đó … thì chẳng có gì hết.”12

Rovelli, sau khi khám phá ra rằng không phải tư duy cũng không phải vật chất mà là sự hư vô thuần túy mới nằm trong tận đáy của thực tại, tin rằng ông đã không cần đến cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm. Nhưng liệu ông ấy đã không cần đến chúng?

Những bóng ma chồng chất đến vô tận

Nếu chúng ta lấy hai vật thể tại cấp độ sinh hoạt hằng ngày và xem xét chúng, chúng ta thấy rằng các thuộc tính của chúng mô tả những sự liên hệ với những vật thể khác: vận tốc tương đối, kích thước tương đối, độ sáng tương đối, v.v.. Nhưng xem xét kỹ hơn, người ta phát hiện những vật thể đó được cấu thành từ những bộ phận cơ bản hơn, chúng đến lượt lại thâm nhập vào nhau, và chúng ta bây giờ phát hiện ra rằng các bộ phận đó có tập ‘quan hệ’ của riêng chúng. Điều này hầu như chẳng phải là một khám phá gì đó mới mẻ.

Nhưng ý tưởng này xâm chiếm Rovelli bằng một cảm giác chếnh choáng. Một điều gì đó thật kinh ngạc có vẻ như đang diễn ra: mỗi thang bậc, vật chất xuất hiện để biến mất khỏi tầm nhìn, rút xa hơn vào phía xa, bỏ lại chúng ta chẳng còn gì hết ngoài những ‘quan hệ’ đó. Trích dẫn người bạn là nhà vật lý Anthony Aguirre, Rovelli giải thích:

“Một electron là một loại đặc biệt của tính quy luật vốn xuất hiện trong những đo lường và quan sát mà chúng ta thực hiện. Nó là một mẫu hình hơn là một chất. Nó là trật tự… Do đó chúng ta đi đến một nơi kỳ lạ. Chúng ta chia nhỏ vật thành những thành phần ngày càng nhỏ hơn, nhưng rồi các thành phần này, khi được nghiên cứu, không tồn tại ở đó. Chỉ có những sự sắp xếp của chúng tồn tại. Vậy thì vật, như chiếc thuyền, hoặc cánh buồm của nó, hoặc móng tay của bạn là cái gì? Chúng gì? Nếu vật là những hình thức của hình thức của hình thức của hình thức của hình thức, và nếu hình thức là trật tự, và trật tự được chúng ta định nghĩa … chúng, tựa hồ, tồn tại chỉ như được tạo ra bởi, và trong quan hệ với, chúng ta và Vũ trụ. Đức Phật có thể nói, chúng là sự trống rỗng.”13

13 Trích dẫn trong C Rovelli (2021) tr. 75.

Do đó cái tư tưởng mà cho rằng tất cả là hình thức, hình thức là trật tự, và chúng ta định nghĩa trật tự, lại đưa vào người tư duy có ý thức như là bộ phận chủ yếu của thực tại.

Cái tư tưởng – mà cho rằng vật chất như thế đang biến mất, trong cuộc rút lui cùng với sự tăng tiến của khoa học – thì không hề mới mẻ và độc đáo. Sự việc chúng ta phải luôn luôn điều chỉnh lại sự hiểu biết của chúng ta về vật chất cùng với sự tiến bộ của khoa học bao giờ cũng bị những người duy tâm lợi dụng để ‘bác bỏ’ chủ nghĩa duy vật và phủ nhận sự tồn tại của vật chất.

Một bức thư có trước cuốn sách của Rovelli, trong ấn bản phát hành ngày 4 tháng Một năm 2014 của tạp chí New Scientist, đưa ra một ví dụ rất hay về lý lẽ này:

“Càng nhìn gần vào vật chất bao nhiêu nó càng tan biến trước mắt chúng ta bấy nhiêu.

“Khối lượng, sự lượng hóa các vật, thật ra là trường năng lượng phát sinh bởi hạt Higgs hoặc trường gluon. Và nó lẽ xét cho đến cùng các hạt cơ bản sẽ được hiểu là những thực thể hình học thuần túy. Do đó, các biên của vật lý ngày càng tiến sát hơn đến chủ nghĩa duy tâm, cái tư tưởng cho rằng thực tại là phi vật chất ở trong tự nhiên.

“Cho nên người ta không nên lo lắng rằng có con ma ở trong cỗ máy. Chân lý hoàn toàn trái ngược: không có cỗ máy nào cả. Tất cả đều là những con ma.14

14 New Scientist, Issue 2950, 4 January 2014

Tác giả của bức thư này ít nhất cũng thực sự thành thật và thẳng thắn về chủ nghĩa duy tâm của anh ta. Lý lẽ của anh ta, tuy nhiên, là một thủ đoạn: một thủ đoạn đã được Lenin trả lời một cách chính xác trong cuốn sách Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, nơi ông giải thích rằng không phải là ‘vật chất’ mà chính là sự hiểu biết phiến diện, hạn chế của chúng ta về cái đang rút lui khỏi sự tiến lên của khoa học:

“‘Vật chất đang tiêu tan’, điều đó có nghĩa là giới hạn hiểu biết vật chất cho đến nay của chúng ta đang tiêu tan, tri thức của chúng ta trở nên sâu sắc hơn; những đặc tính của vật chất, trứớc đây được coi là tuyệt đối, bất biến, đầu tiên (tính không thể thâm nhập được, quán tính, khối lượng15, v.v.) đang tiêu tan và bây giờ đây tỏ ra là tương đối và chỉ là đặc tính vốn có của một số trạng thái nào đó của vật chất. Vì ‘đặc tính’ duy nhất của vật chất – mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này – là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta.”16

15 Có lẽ ở đây có ý nói về khối lượng cơ học mà trong vật lý học cổ điển vẫn được coi là đặc tính vĩnh cửu và bất di bất dịch của vật chất.

16 Lenin (2005), tr. 321.

Mỗi bước tiến trong sự hiểu biết khoa học của chúng ta về vật chất buộc triết học phải đi đúng bước.

Trong thời Trung Cổ, có quan điểm phổ biến cho rằng không có cái gọi là không gian ‘trống rỗng’, rằng mọi sự vật bị đổ đầy bằng vật chất. Sau này, tư tưởng Hy Lạp cổ đại về nguyên tử và hư vô được hồi sinh bởi một nhà duy vật Pháp là Gassendi. Sự tồn tại của các nguyên tử được minh chứng một cách khoa học trong thế kỷ XIX bằng sự phát hiện ra chuyển động Brown, và trong một thời gian dài các nguyên tử này được xem là những viên gạch vật chất tuyệt đối, không thể bác bỏ, không thể xâm nhập – đây là một kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật cơ giới.

Nhưng khoa học tiếp tục xâm nhập sâu hơn, và chân lý cũ chứng tỏ, phần nào, có tính tương đối. Người ta phát hiện ra rằng nguyên tử phần lớn là không gian ‘trống rỗng’, bị chiếm bởi các electron được tổ chức trong các lớp vỏ đẩy nhau nhờ cái được gọi là sức ép suy biến lượng tử. Tại trung tâm của các nguyên tử này là hạt nhân cô đặc được tạo thành từ các proton và neutron. Với sự phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, các hạt nhân cũng xâm nhập được; các proton và neutron được chứng minh là cấu thành từ những đơn vị nhỏ hơn gọi là quark và gluon.

Không chỉ có vật chất ‘đặc’ trước đây được chứng minh là ‘trống rỗng hơn’ rất nhiều so với chúng ta nghĩ lúc đầu; chân không ‘trống rỗng’ được phát hiện là ‘đầy đủ’ hơn rất nhiều so với mong đợi trước đây. Với sự phát hiện ra ‘năng lượng điểm không’, tư tưởng về chân không như là ‘không gian trống rỗng’ phải được xem xét lại.

Không có lý do để cho rằng điều này là chỗ kết thúc. Nhưng chúng ta có thể nói chắc chắn rằng cho dù chúng ta có đi xa đến đâu, chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy tư tưởng hoặc ‘những thực thể hình học thuần túy’ tại tận đáy của thực tại. Mỗi tầng của giới tự nhiên mà chúng ta xâm nhập chỉ ra sự phiến diện trong hiểu biết của chúng ta về vật chất, chỉ ra tính cách hữu hạn, bị hạn chế của tư duy chúng ta vốn chỉ là những sự xấp xỉ của một vũ trụ tràn ngập những sự phong phú vô cùng tận.

Những người duy tâm thường triển khai thủ đoạn tuyên bố rằng họ chỉ đang chiến đấu chống lại cái hình thức này nọ của chủ nghĩa duy vật, chỉ để lén lút du nhập chủ nghĩa duy tâm.

Hình 4: Hội nghị Solvay 1927, gồm có Niels Bohr, Louis de Broglie, Albert Einstein, Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger và nhiều nhà tiên phong khác của vật lý lương tử. / Image: public domain

17 C Rovelli (2021), tr. 105.

Rovelli tuyên bố lặp đi lặp lại rằng ông ta chỉ đang chiến đấu chống cái mà ông cho là “chủ nghĩa duy vật ngây thơ” – một thuật ngữ mà ông thất bại trong việc định nghĩa. Rovelli giải thích rằng “Mục tiêu luận chiến chủ yếu của Mach là chủ nghĩa cơ giới thế kỷ XVIII.”17 Tuy nhiên, chính đằng sau chiêu bài xảo quyệt nhắm đến một hình thức lỗi thời của chủ nghĩa duy vật mà Mach trong thực tế đã gánh vác cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật nói chung.

Một lần nữa, Lenin giải thích tất cả điều này trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán:

“Ăng-ghen nói rõ rằng: ‘Chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức, mỗi lần có sự phát minh vạch thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên nữa’ [trong lĩnh vực lịch sử loài ng­­­ười thì càng không cần phải nói] (L. Phơ-bách, bản tiếng Đức, tr. 19)18. Cho nên việc xét lại ‘hình thức’ của chủ nghĩa duy vật của Ăng-ghen, việc xét lại những luận điểm về triết học tự nhiên của ông không những không bao hàm một cái gì là ‘chủ nghĩa xét lại’ theo nghĩa thông thường của danh từ đó, mà trái lại, đó chính là điều mà chủ nghĩa Mác tất nhiên phải yêu cầu. Chúng ta trách cứ những người theo phái Ma-khơ hoàn toàn không phải về việc xét lại như vậy, mà về cái phương pháp thuần tuý xét lại của họ là: cải biến thực chất của chủ nghĩa duy vật dưới cái vẻ phê phán hình thức của nó, chấp nhận những mệnh đề cơ bản của triết học tư sản phản động…19

18 Xem C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Tuyển tập gồm hai tập, tiếng Nga, t.II, 1955, tr. 353-354. -– 310.

19 Lenin (2005), tr. 310.

Vận động mà không có vật chất?

Tư tưởng cho rằng những sự ‘quan hệ’ thoát ly khỏi vật chất – tức là quan hệ thoát ly khỏi cái mà nó liên hệ – là một điều vô lý. Và, bất chấp Rovelli trình bày điều này như là cái gì đó ‘mới mẻ’ như thế nào, Lenin phê phán chính xác cái tư tưởng giống như thế trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán:

Chúng ta nên nói ở đây, trong khi Rovelli làm ra vẻ quan trọng trong việc bảo vệ Bogdanov chống lại Lenin trong cuốn sách Helgoland, chúng ta kinh ngạc trước sự hời hợt mà Rovelli đã đọc cuốn sách của Lenin, bởi vì ông ta thất bại trong việc đề cập đến bất kỳ lý lẽ nào của Lenin. Đáng chú ý là ông ta đã không nhìn thấy sự tương đồng giữa giải thích ‘mới’ của mình về cơ học lượng tử và một tư tưởng thịnh hành trong thời Lenin mà Lenin đã thảo luận một cách trực tiếp, cái tư tưởng về ‘duy năng luận’.

Mach và người đồng suy nghĩ với ông, nhà hóa học Wilhelm Ostwald, cho rằng họ đã gặp phải một điều gì đó sâu sắc khi họ đề xuất thay thế ‘vật chất’ như là viên gạch cơ bản của thực tại bằng ‘năng lượng’ hoặc vận động.

Tuy nhiên, tư tưởng cho rằng vận động có thể tồn tại mà không có vật chất là ngu xuẩn cũng như tư tưởng cho rằng vật chất có thể tồn tại mà không có vận động, hoặc rằng những ‘quan hệ’ có thể tồn tại mà không có vật chất như Rovelli khẳng định.

Phương trình nổi tiếng của Einstein \(E = mc^2\) đã chỉ ra rằng khối lượng và năng lượng không chỉ liên hệ sâu sắc với nhau mà còn tương đương và biến đổi sang nhau. Vật chất và năng lượng là không thể nào tách rời nhau. Nhưng Lenin giải thích rằng, ngay cả khi chúng ta chấp nhận việc Ostwalt và Mach thay thế ‘vật chất’ bằng ‘năng lượng’ thôi, chúng ta vẫn không thể tránh khỏi việc rơi vào phái duy tâm hoặc duy vật:

“Nếu năng lượng là vận động, thì chẳng qua là anh chỉ mang cái khó khăn của chủ ngữ chuyển cho vị ngữ, chỉ đem câu hỏi: có phải vật chất vận động không? chuyển thành câu hỏi: năng lượng có là vật chất không? Sự chuyển hóa của năng lượng có phải diễn ra ở bên ngoài ý thức của tôi, một cách độc lập đối với con người và đối với loài người không, hay đó chỉ là những ý niệm, những tượng trưng, ký hiệu ước lệ, v.v.? Chính vấn đề ấy là một tai họa đối với triết học ‘duy năng luận’, tức là việc thử dùng thuật ngữ ‘mới’ để ngụy trang cho những sai lầm cũ về nhận thức luận.”20

20 Lenin (2005), tr. 334-335.

Nếu chúng ta thay vật chất bằng ‘năng lượng’ hoặc ‘vận động’ như là nền tảng cơ sở của thực tại, thì câu hỏi vẫn được đặt ra là liệu chúng ta đang nói về vận động xảy ra trong một thế giới vật chất, khách quan độc lập với chúng ta, hoặc trong ý thức của chúng ta. Nếu chúng ta thay thế thuật ngữ ‘năng lượng’ và ‘vận động’ trong trích dẫn ở trên bằng những ‘quan hệ’ thì đoạn đó được hiểu là một câu trả lời trực tiếp cho Rovelli.

Chúng ta đang nói về những ‘quan hệ’ vật chất hay những ‘quan hệ’ ý niệm thuần túy? Câu hỏi cần phải được trả lời. Những người Marxist trả lời dứt khoát: những quan hệ của tự nhiên tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta. Tức là chúng là những quan hệ vật chất. Mọi vật chất chỉ tồn tại thông qua sự biến đổi liên tục không ngừng của các quan hệ với phần còn lại của vũ trụ vật chất.

Sự không triệt để của Rovelli

Rovelli bác bỏ cái mà ông gọi là chủ nghĩa duy vật ngây thơ. Ông cũng tự cho là bác bỏ chủ nghĩa duy tâm triết học. Nhưng khi bác bỏ sự tồn tại của vật chất, ông một lần nữa mở cửa cho chủ nghĩa duy tâm. Song ý tưởng bước qua cánh cửa đó có vẻ như làm cho ông không cảm thấy thoải mái. Có điều gì đó trong lương tâm của ông cho ông biết cái nằm ở bên kia cánh cửa: chủ nghĩa phi lý trí, chủ nghĩa duy linh và một sự rút lui về với niềm tin tôn giáo.

Chí ít thì chúng ta nài nỉ ông phải triệt để về triết học của mình. Và chúng ta lưu ý rằng có những người duy tâm triệt để họ cũng đang nài nỉ ông phải như thế!

Nếu thứ ngôn ngữ hoa mỹ và sự mơ hồ có chủ tâm khiến bạn vẫn còn chút nghi ngờ nào đó về trường phái triết học của ông, thì có lẽ những lời của Bernardo Kastrup, giám đốc điều hành của tổ chức chiến lược duy tâm chủ nghĩa, Tổ chức Essentia, sẽ làm sáng tỏ sự việc.

Trong blog của mình, Kastrup mô tả bản thân là “đang dẫn dắt sự phục hưng hiện đại của chủ nghĩa duy tâm siêu hình”. Và ông đề nghị “sự tán thành, sự đề bạt và sự bảo vệ toàn diện của ông dành cho Diễn giải Quan hệ về cơ học lượng tử” của Carlo Rovelli. Ông viết như sau:

“Rovelli và tôi hoàn toàn nhất trí khi nói đến quan điểm của chúng tôi về bản chất của thực tại vật lý: không có thế giới tuyệt đối của những cái bàn và những cái ghế có khối lượng, vị trí, momentum, v.v. xác định ở ngoài kia mà thế vào đó là một thế giới hoàn toàn có tính chất quan hệ. […] Tóm lại, thế giới vật lý không có thực tại độc lập.”

Ông viết tiếp:

“… Rovelli bảo vệ các kết luận của cơ học lượng tử được thảo luận ở trên, nhưng một cách rõ ràng và cố ý tránh thăm dò những ngụ ý triết học của chúng […] rằng ‘tính trống rỗng’ là tư duy đang nghỉ, một chủ thể không có khách thể, chứa đầy tiềm năng cho mọi quan hệ nội tại mà có thể tưởng tượng ra được.”21

21 B Kastrup, Here I part ways with Rovelli, bernardokastrup.com, June 2021

Chính bản thân chúng tôi đã không thể nói rõ ràng hơn.

Tại sao triết học lại quan trọng

Cho đến giờ, chúng ta ít nói về người mà Rovelli đề tặng cuốn Helgoland, một người phái Mach, một người cựu Marxist, Alexander Bogdanov, người đã chia tay Lenin vào năm 1909. Rovelli, một người cánh tả bác bỏ chủ nghĩa Lenin, đã có những cảm thông rõ ràng về chính trị cũng như về triết học với Bogdanov. Điều đó không phải tình cờ. Có một sự liên kết giữa việc Bogdanov và Rovelli xa rời chủ nghĩa Marx và ‘những sự cách tân’ triết học của họ.

Rovelli đưa rất nhiều thông tin tiểu sử về người anh hùng của ông: “Một bác sĩ, một nhà kinh tế học, một nhà triết học, một nhà khoa học tự nhiên, một nhà viết tiểu thuyết hư cấu, một nhà thơ, một nhà giáo, một nhà chính trị, một bậc tiền bối của điều khiển học và khoa học tổ chức, một nhà tiên phong trong truyền máu và một nhà cách mạng suốt đời…”22

22 C Rovelli (2021), tr. 114.

Nhưng về khía cạnh đề cập đến cuối cùng này của cuộc đời Bogdanov: Hoạt động chính trị của Bogdanov – hoặc của Lenin nói cho công bằng – Rovelli chỉ đưa ra một vài nhận xét hời hợt, sáo mòn, được giãi bày bằng giọng văn hết sức khoa trương.

Trong lĩnh vực chính trị, Rovelli bảo chúng ta rằng Bogdanov là một nhà dân chủ vĩ đại. Ông muốn “để lại quyền lực và văn hóa cho nhân dân”. Trong khi đó, Lenin (tất nhiên!) là một kẻ độc đoán không thể nào sửa chữa được, mắc tội “chủ nghĩa giáo điều chính trị đã bị vôi hóa”. Cương lĩnh chính trị của ông là “củng cố đội tiên phong cách mạng, kho chân lý cần thiết để dẫn dắt nhân dân”.23

23 sđd, tr. 111.

Chúng ta một lần nữa ở trong địa hạt quen thuộc. Cũng cái chân dung này có thể được tìm thấy trong bất cứ cuốn sách vu khống, của cánh hữu về Lenin mà bạn quan tâm lựa chọn: Lenin, kẻ độc đoán, tên trung sĩ huấn luyện giáo điều, đưa ‘đường lối đảng’ đến nhân dân từ trên cao.

Hình 5: Lenin, 1910. / Image: public domain

Trong thực tế, mọi chuyện hoàn toàn ngược lại với cách Rovelli hình dung về chúng. Không những không hề có một quan điểm bị vôi hóa và giáo điều, Lenin là nhà tư tưởng linh hoạt và nhìn xa trông rộng nhất trong số những người Bolshevik.

Xuất phát điểm của Lenin là nghiên cứu thực tại vật chất, không phải để áp đặt lên nó các quan niệm thiên kiến mà phải th­ường xuyên xem lại thực tại vật chất này, cái là nguồn gốc của tính khách quan của tư duy của chúng ta. Chính phương pháp duy vật, đối lập với chủ nghĩa bè phái mà trên thực tế đặc trưng cho toàn bộ cách tiếp cận của Bogdanov, cái chủ nghĩa áp đặt lên thực tại sơ đồ và các công thức được chế tạo sẵn, đã dẫn ông đến cả một loạt sai lầm, kết thúc bằng sự tuyệt giao của ông với Lenin.

Sự chia rẽ giữa hai người bị buộc chặt vào hai khuynh hướng triết học mà mỗi người đại diện. Lenin đang bảo vệ chủ nghĩa duy vật biện chứng cách mạng, viên đá đặt nền của một tổ chức Marxist. Bogdanov, giống như Rovelli, là người đủ trung thực theo cách riêng của mình, đã không thể nhận ra nội dung duy tâm phản động nấp đằng sau những tư tưởng mới, thức thời bắt nguồn từ các nhóm khoa học tư sản ở Tây Âu, mà chúng xét cho đến cùng ngụ ý sự thủ tiêu chủ nghĩa Marx cách mạng.

Cuộc đấu tranh cho một triết học rõ ràng là có tầm quan trọng sống còn cho cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Tồn tại thành kiến phổ biến cho rằng việc đi tìm chân lý khách quan trong khoa học bằng cách nào đó nâng nó lên trên các cuộc đấu tranh giai cấp vĩ đại trong xã hội. Điều này là sai lầm, sai lầm nguy hiểm. Có những người khác, bao gồm những người sáng suốt hơn trong kẻ thù giai cấp của chúng ta, cũng hiểu rõ điều này như chúng ta.

Các bình luận về triết học của một nhà tiên phong khác trong cơ học lượng tử, một người theo chủ nghĩa thực chứng phái Mach và là đảng viên chính thức của Đảng Quốc xã, Pascual Jordan, thì hết sức sáng tỏ về vấn đề này.

“…không chỉ có kết quả thủ tiêu chủ nghĩa duy vật là một kết quả đủ quan trọng, mà khái niệm thực chứng còn đưa ra những khả năng mới đảm bảo không gian sống cho tôn giáo mà không có mâu thuẫn từ tư duy khoa học. Chúng ta hãy nhớ rằng chủ nghĩa thực chứng chấp nhận những quan sát thực nghiệm và những trải nghiệm như là ‘thực tại’ duy nhất cho nhà vật lý. Việc nhấn mạnh khái niệm này dẫn chúng ta đến thực tế là có những trải nghiệm khả dĩ mà hoàn toàn khác với những quan sát đó và những kết quả được phân loại trong hệ thống của nhà vật lý.”24

24  P Jordan (1944), tr. 160.

Những lời nói này thật đáng ngưỡng mộ ở sự rõ ràng của chúng. Chúng là những lời nói của một người phản cách mạng có ý thức giai cấp, y hoàn toàn nhận thấy nội dung phản động của bộ tư tưởng này. Y nhìn thấy ở trong các tư tưởng đó những khả năng cho chủ nghĩa ngu dân quay trở lại, với sự ủng hộ thái quá của chính giới khoa học.

Chưa hết, y hiểu sự hữu ích của chúng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Thực vậy, y đề nghị đặt các công trình triết học và khoa học của mình dưới chân của chế độ Quốc xã như là “một liều thuốc giải độc đối với chủ nghĩa duy vật của những người Bolshevik”:

“Dĩ nhiên, thất bại của chủ nghĩa Bolshevik – bây giờ đang nổi lên một cách đáng báo động trong các dân tộc láng giềng – chủ yếu là vấn đề ra quyết định chính trị và sức chiến đấu cả về tư tưởng lẫn giống nòi, mà không thể thay thế được bằng chứng cứ khoa học. Tuy nhiên, có vẻ như một dấu hiệu quan trọng của thời đại cho thấy thế giới quan duy vật – được xem như một lý thuyết khoa học – đang bị bóc trần là không thể trụ vững được và đi ngược lại kiến thức khoa học đúng trong những lĩnh vực khoa học mà kể từ thời Phục hưng từng được xem là lĩnh vực an toàn nhất của nó.”25

25 Trích dẫn trong D Hoffmann, M Walker, ‘Der gute Nazi: Pascual Jordan und das Dritte Reich’, Pascual Jordan (1902–1980): Mainzer Symposium zum 100. Geburtstag, Max-Planck-Institut für Wissenschaftsgeschichte, 2007, tr. 100, bản dịch của chúng tôi

Chúng ta phải đồng ý với Jordan ở điểm này: quả thực, điều đáng chú ý là một cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật đã nổ ra đúng trong vũ đài khoa học.

Những người hùng vĩ đại của cuộc Cách mạng Khoa học, vốn trùng hợp với buổi bình minh của kỷ nguyên tư bản, đã vận dụng một thế giới quan triết học duy vật táo bạo trong cuộc đấu tranh chống tàn dư trung cổ trong tư duy. Đây là một dấu hiệu thối nát của giai cấp tư bản, từng sinh ra các nhà tiên phong như thế, khi toàn bộ mũi dùi tư duy của họ một lần nữa hướng đến tàn dư trung cổ. Họ bây giờ quay lưng với thực tại, làm ngu muội và reo rắc chủ nghĩa thần bí, để lừa bịp quần chúng.

Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm do đó gắn liền với cuộc đấu tranh cho một thế giới quan khoa học đối với mọi lĩnh vực xã hội và tự nhiên, và nó gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để đạt được một sự thấu hiểu rõ ràng về quyền lợi và nhiệm vụ lịch sử của nó. Chúng ta sẽ gánh vác cuộc đấu tranh này, đó là một phần căn bản trong cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra trên mọi mặt trận, trong đó mặt trận khoa học còn lâu mới là mặt trận kém quan trọng nhất.

Bản gốc tiếng Anh: ‘Helgoland’: a quantum physicist’s crusade against Lenin

Bản dịch nháp, cập nhật lần cuối: 2025-11-15

Tài liệu tham khảo

C Rovelli. 2021. Helgoland. Allen Lane.
Lenin. 2005. Lenin Toàn tập. Vol 18. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia. https://www.marxists.org/vietnamese/lenin/toan_tap/Lenin18.pdf.
N Bohr. 1985. Atomic Theory and the Description of Nature, Collected Works. North-Holland Physics Publishing.
P Jordan. 1944. Physics of the 20th Century.